Nhóm nghiên cứu của TS. Phạm Xuân Liêm, Viện nghiên cứu hợp tác khoa học kỹ thuật châu Á – Thái Bình Dương đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu hoàn thiện công nghệ cận và sau thu hoạch để bảo quản nhãn tại Hà Nội và Sơn La”. Nhóm nghiên cứu đã xây dựng được quy trình công nghệ xử lý cận và sau thu hoạch nhãn.
Sau đó, trước thời gian thu hái truyền thống khoảng 7 – 10 ngày phun AVG (Retain) ở nồng độ 830 ppm giúp làm chậm thời gian thu hoạch so với đối chứng khoảng 10 ngày, đồng thời trái nhãn vẫn giữ được chất lượng dinh dưỡng và cảm quan tốt, không có sự khác biệt so với những trái nhãn không áp dụng xử lý cận thu hoạch.
Sau khi trái nhãn đã được xử lý cận thu hoạch tiếp tục tiến hành xử lý sau thu hoạch: sau khi thu hái được làm lạnh bằng nước lạnh trong 2 phút, vận chuyển về nơi tập kết, xử lý sơ bộ, sau đó được nhúng trong hỗn hợp dung dịch PAG 0,1% kết hợp với acid oxalic 0,2% trong thời gian 2 phút rồi để ráo và bao gói trong túi LDPE có đục lỗ 1% diện tích túi (đường kính lỗ 4 mm).
Sau thời gian bảo quản, trái nhãn vẫn giữ được chất lượng dinh dưỡng, trạng thái, màu sắc và hương vị đủ tiêu chuẩn lưu thông trên thị trường; duy trì được chất lượng ổn định trong thời gian 5 – 7 ngày ở điều kiện phòng với tỷ lệ hư hỏng dưới10%.
Nhóm nghiên cứu đã xây dựng được 2 tiêu chuẩn cho trái nhãn trên 2 giống nhãn chín muộn HTM-1, PH-M99-1.1, cụ thể như sau:
– Tiêu chuẩn nguyên liệu của trái nhãn tươi sau khi đã tác động các biện pháp xử lý cận thu hoạch: Đối với trái nhãn chín muộn HTM-1: được thu hái sau khi cây tắt hoa hoàn toàn 140 ngày, trái có khối lượng đạt 11 – 12 g, hàm lượng chất rắn hòa tan tổng số 20 – 21%.
Khi đó, phần sù sì trên vỏ trái chiếm khoảng 20% toàn bộ vỏ trái, vỏ trái có màu vàng sáng, vị ngọt đậm, giòn, cùi dày, có màu trắng đục, có nhiều nếp nhăn, mọng nước và dễ dàng tách vỏ ra khỏi phần thịt trái.
Đối với trái nhãn chín muộn PH-M99-1.1: được thu hái khi cây tắt hoa hoàn toàn 130 ngày, trái có khối lượng đạt 14 – 15 g, hàm lượng chất rắn hòa tan tổng số 19 – 20%. Khi đó, bề mặt vỏ mịn, màu nâu vàng, vị ngọt, có độ mềm tay, dễ dàng tách vỏ ra khỏi phần thịt trái, vỏ dày.
– Tiêu chuẩn chất lượng cơ sở cho trái nhãn sau bảo quản: tiêu chuẩn này được áp dụng cho trái nhãn bảo quản ở điều kiện phòng với chất lượng cảm quan, hóa lý, và an toàn thực phẩm.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu đã xây dựng được mô hình đồng bộ xử lý cận và sau thu hoạch áp dụng các kết quả nghiên cứu trên quy mô 1 ha đối với phần cận thu hoạch và 1 tấn đối với phần sau thu hoạch ở mỗi nơi.
Trái nhãn sau khi áp dụng mô hình đã cho năng suất đạt 130% so với không áp dụng mô hình, đồng thời kéo dài được thời gian bảo quản ở điều kiện thường gấp 2 lần và lãi suất từ mô hình đã tăng hơn 20%.
THANH HOÀNG