Để ngăn ngừa việc sử dụng thuốc lá nói chung và các sản phẩm thuốc lá mới, việc tăng cường cung cấp thông tin, cũng như phổ biến rộng rãi về tác hại của các sản phẩm thuốc lá mới cho học sinh, sinh viên, cán bộ, giáo viên tại các cơ sở giáo dục là rất cần thiết.
Các sản phẩm thuốc lá thế hệ mới chưa được cấp phép tại Việt Nam
Theo nhận định của Bộ Y tế, hiện nay việc sử dụng các sản phẩm thuốc lá điện tử (Electronic nicotine delivery – ENDs), thuốc lá nung nóng (Heated tobacco product – HTPs) đang có xu hướng gia tăng nhanh chóng, đặc biệt trong đối tượng học sinh. Nhiều học sinh đã phải cấp cứu vì bị ngộ độc nicotine và các dung dịch có trong các sản phẩm này.
Thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng hiện nay chưa được phép nhập khẩu, kinh doanh và lưu hành hợp pháp tại Việt Nam.
Bên cạnh các tác hại giống như thuốc lá điếu thông thường, thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng còn nguy cơ tiềm ẩn và phát sinh các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe và lối sống của thanh thiếu niên, đồng thời gây ra các tác hại trước mắt và lâu dài về sức khỏe, kinh tế, xã hội.
Gần đây, tại một trường học ở Hà Nội, có 8 học sinh tiểu học phải đến bệnh viện khám vì hút thử thuốc lá điện tử, do tò mò khi nhặt được điếu thuốc lá điện tử.
Tại Quảng Ninh, giữa tháng 4 vừa qua, có 4 học sinh (cùng 15 tuổi) cũng phải nhập viện cấp cứu với biểu hiện choáng váng, buồn nôn, khó thở… và được chẩn đoán ngộ độc nicotine sau khi hút thuốc lá điện tử.
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn, công tác phòng, chống tác hại thuốc lá cho thanh thiếu niên ở Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn và thách thức.
Trong đó, tỉ lệ sử dụng thuốc lá ở học sinh nhóm tuổi 13-15 tăng từ 0,2% năm 2014 lên 0,8% năm 2022; tỉ lệ hút thuốc lá ở nữ giới có xu hướng tăng. Tình trạng sử dụng các sản phẩm thuốc lá mới trong giới cũng trẻ đang có xu hướng gia tăng.
Cụ thể, tỉ lệ hút thuốc lá điện tử trên 15 tuổi tăng từ 0,2% năm 2015 lên 3,6% năm 2020, đặc biệt tập trung ở nhóm tuổi 15-24 tuổi với tỉ lệ là 7,3%. Ở nhóm tuổi học sinh từ 13-15 tuổi, tỉ lệ sử dụng thuốc lá điện tử là 3,5%, trong đó học sinh nam là 4,3%, học sinh nữ là 2,8%.