Công tác tại vùng đặc biệt khó khăn có được nghỉ hưu trước tuổi?

Ông Phạm Văn Cường (Sóc Trăng) hỏi, giáo viên nữ, sinh ngày 6/10/1972, công tác tại vùng đặc biệt khó khăn trên 5 năm (không có thời gian công tác tại nơi có phụ cấp khu vực 0,7 trở lên), đóng BHXH trên 20 năm thì có đủ điều kiện nghỉ hưu trước tuổi vào năm 2023 không?

Về vấn đề này, Bảo hiểm xã hội Việt Nam trả lời như sau:

Theo quy định tại Điều 169, Khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động năm 2019 và Nghị định số 135/2020/NĐ-CP ngày 18/11/2020 của Chính phủ thì tuổi nghỉ hưu đối với lao động nữ làm việc trong điều kiện bình thường trong năm 2023 là 56 tuổi.

Trong các văn bản trên có quy định một số nội dung về điều kiện nghỉ hưu đối với lao động nữ như sau:

Lao động nữ có thể nghỉ hưu thấp hơn không quá 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường tại thời điểm nghỉ hưu nếu có đủ 20 năm đóng BHXH và thuộc một trong các trường hợp dưới đây:

– Có từ đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội ban hành;

– Có từ đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn (bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021);

– Suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên;

– Có tổng thời gian làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và thời gian làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn (bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021) từ đủ 15 năm trở lên.

Lao động nữ có thể nghỉ hưu thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường tại thời điểm nghỉ hưu, nếu có đủ 20 năm đóng BHXH và thuộc một trong các trường hợp dưới đây:

– Có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò;

– Suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.

Lao động nữ có 20 năm đóng BHXH mà bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp hoặc bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành thì không quy định giới hạn về tuổi.

Mặt khác, tại Khoản 2 Điều 4 Thông tư số 19/2021/TT-BLĐTBXH ngày 15/12/2021 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành danh mục vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn để làm căn cứ xác định các trường hợp có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường quy định: Thời gian người lao động làm việc trước ngày 1/1/2021 được căn cứ theo nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên để làm cơ sở xác định các trường hợp có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường.

Như vậy, thời gian làm việc ở địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn để làm căn cứ xác định các trường hợp có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường theo quy định tại các văn bản nêu trên được tính từ ngày 1/1/2021.

Đối chiếu các quy định nêu trên, với thông tin ông cung cấp có nêu “không có thời gian công tác ở nơi có phụ cấp khu vực 0,7 trở lên” thì chưa đủ căn cứ xác định trường hợp ông hỏi đủ điều kiện nghỉ hưu trước tuổi trong năm 2023.

BHXH Việt Nam xin cung cấp quy định chung của chính sách nêu trên để ông tham khảo và liên hệ đến cơ quan BHXH địa phương để được trả lời cụ thể.

Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ

Recommended For You