Là 2 câu mở đầu bài vè:
Quảng Nam hay cãi
Quảng Ngãi hay lo
Bình Định nằm co
Thừa Thiên hốt sạch.
Có lẽ bài vè này xuất hiện sau năm 1832, vì năm đó địa danh Thừa Thiên mới xuất hiện, khi vua Minh Mạng đổi doanh Quảng Đức thành tỉnh Thừa Thiên. Bài vè nói chơi cho vui miệng hay có căn nguyên? Thử bàn luận xem sao.
Trước hết, nói về Quảng Nam hay cãi.
Quả thật, bất cứ chuyện gì người Quảng Nam cũng có thể cãi. Ấy mới là tài, ấy mới là giỏi. Chuyện xưa rằng, sỹ tử mọi miền phải đến kinh đô Huế để thi, thế là có câu:
Học trò trong Quảng ra thi
Thấy o gái Huế chân đi không đành.
Đùa, nhưng là khen đấy. Khen cho cái tính đa tình của cậu học trò xứ Quảng, cũng có ý khen gái Huế đẹp. Chuyện thường thôi, nhưng người xứ Quảng vẫn cãi cho bằng được, rằng phải là: Học trò trong Quảng ra thi / Mấy o gái Huế chân đi không đành.
Chỉ thay một chữ, nhưng ngữ nghĩa khác hẳn.
Chuyện gần đây, tiếu lâm về du kích xứ Quảng. Thời chống Mỹ ở Quảng Nam, mật thám chỉ điểm một khu vườn có hầm bí mật của du kích. Trực thăng bay tới, chĩa loa kêu gọi đầu hàng. Mãi vẫn im re, viên sĩ quan Việt Nam Cộng hòa chợt nghĩ đến tính hay cãi của người xứ Quảng, bèn chọc tức:
– Mấy anh học có lớp 3 lớp 4 cũng bày đặt làm cách mạng.
Lập tức nắp hầm bật tung, mấy anh du kích thò đầu, giơ nắm đấm lên cãi:
– Tau lớp 5 nghe mày!
– Tau lớp 8 nghe mày!
– Tau lớp 9 nghe mày!
Thế là… thôi rồi Lượm ơi.
Chuyện ngày nay. Nhóm cán bộ của một cơ quan đi công tác. Lên xe, sau vài ba câu chuyện là bắt đầu cãi nhau. Chịu hết nổi, trưởng đoàn ra quyết nghị: từ giờ đến bữa trưa, ai cãi phải trả tiền cơm cho cả nhóm.
Đến khúc đường vắng, xe dừng cho mọi người “xả nước cứu thân”. Biết có anh máu lý sự, từ lúc bị cấm cãi rất ấm ức, một cậu ranh mãnh chỉ đám cỏ voi (trồng để nuôi bò, dê) lên tiếng:
– Chà, mía trồng nhiều như ri mà chẳng thấy nhà máy đường đâu hỉ?
Bắt trúng chỗ ngứa, anh kia cãi liền:
– Cây ni mà ông gọi là mía hử? Lạt nhách, cỏ voi đó.
Dứt lời, anh ta giật mình, đắng họng.
Cãi là gì? Là tranh luận hơn thua, đúng sai. Cãi chứng tỏ người ta không vô cảm, không hờ hững với đời, là thể hiện trách nhiệm, bản lĩnh trước cuộc sống. Tuy nhiên, cãi còn được hiểu như cái gì đó bộc trực, nóng nảy, thiếu kiềm chế.
Đặc tính hay cãi của người Quảng Nam có lý do cả phong thủy và xã hội.
Xứ Quảng kẹp giữa hai khối núi Hải Vân và Ngọc Linh, thế đất hẹp, dốc cao, khí hậu khắc nghiệt khiến con người phải mạnh mẽ, dữ dội mới tồn tại được. Mặt khác, đây vốn là đất của người Chăm, sử viết rằng họ “tính cách mạnh mẽ, giỏi đi biển”. Người Việt tiếp thu được nhiều thứ, trong đó có tính cách ăn sóng nói gió của họ.
Đại thi hào Nguyễn Trãi viết trong Dư địa chí: “Dân vùng này nhiễm tục cũ của người Chiêm, tính tình hung hãn, quen khổ sở”.
Đại Nam nhất thống chí (triều vua Duy Tân) nhận định: “… sĩ phu có khí tiết cứng cỏi bạo nói, nhưng vì thổ lực không hậu mà thế nước chảy gấp nên tính người hay nóng nảy, ít trầm tính, duy có người nào có học vấn uyên thâm mới không bị phong khí ràng buộc”.
Đất Quảng Nam sản sinh nhiều nhà cách mạng học rộng nhìn xa, hay phản kháng triều đình, sau này là phản kháng chế độ thực dân Pháp. Đầu thế kỉ 20 có “Bộ ba Quảng Nam” Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng và phong trào chống sưu thuế năm 1908 ở Trung Kỳ, xuất phát từ sự phản kháng, cãi lý của người Quảng Nam.
Năm 1924 xảy ra trận bút chiến tơi bời bởi hai nhà báo tiếng tăm, sắc sảo Ngô Đức Kế, Phan Khôi (gốc Quảng) với học giả Phạm Quỳnh.
Chả là Phạm Quỳnh đề cao Truyện Kiều hơi quá đáng, nào là “quốc hồn, quốc hoa, quốc túy”, nào là “Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn, tiếng Việt còn, nước ta còn”…
Ngô Đức Kế phản bác bằng bài báo “Nền quốc văn và Luận chính học cùng tà thuyết”, cho rằng đó là luận điệu dối trá.
Phạm Quỳnh chột dạ im re. Mãi 6 năm sau, Phan Khôi và Huỳnh Thúc Kháng cùng lên tiếng về sự yên lặng đó, nhưng trái ngược quan điểm, thế là “cãi”. Năm 1941, lại hai nhà báo gốc Quảng này “cãi” nhau về chủ đề thơ mới trên mặt báo.
Có lẽ tiếng đồn Quảng Nam hay cãi có từ đó.
Hữu Thọ
- Hình bìa: Làng quê Xứ Quảng.
Nguồn: nongnghiep.vn