Truyện ngắn | Chuyện xưa dưới tán hồng

Trong suốt những năm tháng về sau, có một giấc mơ luôn xuất hiện trong anh khi đêm về. Trong mơ, anh đạp xe chở cô dọc những con đường hoa dại, anh ôm cô, hôn cô dưới những tán hồng chín đỏ. Khi tỉnh dậy, nước mắt anh ướt gối…

1. Anh đáp xuống sân bay Liên Khương vào 4 giờ chiều. Xứ núi, giờ này trời đã toan về tối. Anh lên taxi, xe chạy nhanh, anh nhắm mắt lại, không nghĩ gì khác, chỉ duy nhất một lời nguyện cầu: lần này, đúng là cô ấy.

Anh tìm cô đã hai mươi năm. Tìm từ khi tóc còn xanh, giờ mái đầu điểm bạc. Còn gì vô vọng bằng tìm một con người cách xa mình nửa vòng trái đất và cả hai lại chẳng có một mối liên hệ chung nào?

Anh gặp cô năm 1996, năm ấy anh vừa 20 tuổi, trải qua một loạt cú sốc: cha mất, mẹ đi lấy chồng, các bác đuổi ra khỏi căn nhà sinh sống từ thuở nhỏ. Vốn là con một trong gia đình khá giả được yêu chiều, thế mà trong vòng hai năm, số phận tước đi của anh tất cả. Khi ấy, anh đang là sinh viên khoa cơ khí của một trường đại học chuyên về kỹ thuật danh tiếng ở TP Hồ Chí Minh. Cú tấn công của số phận khiến anh suy sụp, bảo lưu việc học, đi làm thuê khắp nơi kiếm sống, cũng tìm kiếm mục đích sống đời mình.

Anh theo người quen lên Đơn Dương làm đủ nghề, từ hái cà phê, hái hồng đến cắt cỏ thuê. Mùa hồng chín năm ấy, anh được thuê hái hồng trong vườn rộng 2 hec ta của một bà quả phụ. Anh còn nhớ như in, hôm đầu tiên đang đứng trong khu vườn vàng rực trái hồng vào mùa, thì nghe một giọng nói quá đỗi dịu dàng cất lên sau vòm lá.

Anh vạch lá nhìn ra, thấy một gương mặt hơi tròn, làn da trắng hồng đặc trưng xứ cao nguyên và một đôi mắt biết cười. Lúc ấy, tim anh hẫng một nhịp. Mãi sau này nghĩ lại, anh mới hiểu mình rơi vào cái mà phim ảnh, sách vở vẫn hay gọi là “tiếng sét ái tình”.

Hồi ấy, anh chưa yêu lần nào, chưa hiểu thế nào là tình yêu. Chỉ biết rằng mình ngày nào cũng mong ngóng cô ấy ra vườn. Lúc nào cũng tìm cách bắt chuyện, tìm cớ để được gặp cô, được nhìn thấy đôi mắt biết cười ấy hướng về anh, lấp lánh.

Họ dần thân thiết. Anh hơn cô hai tuổi. Cô tên Lam, vừa tốt nghiệp lớp 12 và ở nhà làm vườn, buôn bán hồng phụ mẹ. Ở cô vừa có cái mạnh mẽ của một cô gái miền núi đã sớm phải bươn chải làm trụ cột gia đình, vừa có cái ngây thơ của một thiếu nữ nông thôn chưa trải sự đời.

Sau những buổi hái hồng, họ thường làm một ấm chè xanh, đôi quả hồng chín mọng, ngồi dưới tán cây hồng sum suê quả, đẹp như trong một câu chuyện cổ. Cô say mê nghe anh kể chuyện phố xá Sài Gòn, kể về những con đường rợp lá me bay, về những buổi xem phim vui vẻ, những bữa cà phê với bạn bè, về cuộc đời sinh viên thú vị.

Tất cả những gì anh thấy bình thường, quen thuộc, với cô là cả một thế giới lung linh. Khi anh kể chuyện vui, mắt cô lấp lánh. Khi anh mở lòng ra, chia sẻ chuyện buồn của đời mình, đôi mắt biết cười ấy ngấn lệ và cô dùng bàn tay nhỏ bé ấm áp của mình khẽ khàng vỗ vỗ lên bàn tay anh. Với anh, cử chỉ tinh tế ấy hơn mọi lời an ủi.

Ở bên cô, vết thương của anh liền miệng tự lúc nào.

Vườn hái hết hồng, anh vẫn ở lại thị trấn Dran, làm đủ nghề, từ cắt cỏ thuê đến “thợ đụng”. Miễn là được ở lại nơi này. Miễn là được gần cô. Miễn là được nghe cô háo hức hỏi anh những câu chuyện về Sài Gòn. Được đạp xe chở cô vòng ra chợ ngồi ăn bắp nướng, chạy lang thang trên khắp các con đường rợp hoa dại và bóng cây.

Thấm thoát anh ở lại Dran đã hơn nửa năm. Thời gian bảo lưu việc học đã hết và anh đứng giữa ngã ba đường của đời mình. Khi anh kể với Lam, đôi mắt đen láy của cô mở to, cô thốt lên: “Anh còn phải suy nghĩ gì nữa, phải về đi học chứ. Em muốn lắm mà không được. Được đi học đại học sướng biết bao nhiêu…”.

Vì câu nói ấy mà anh quyết định trở về nhập học lại. Anh muốn nhanh chóng ra trường, ổn định cuộc sống, kết hôn với cô, đưa cô xuống Sài Gòn sinh sống, cho cô những tháng ngày tươi đẹp.

Ngày chia tay, miệng cô cười mà ánh mắt cô loáng nước. Họ vẫn chưa nói lời yêu. Anh ôm lấy cô, nghẹn ngào: “Anh sẽ cố gắng để rước em xuống Sài Gòn”. Cô cười, đập tay vào vai anh.

Về phố anh mới phát hiện có hai triệu đồng nằm cuộn trong ngăn nhỏ của ba lô. Khoản tiền Lam lén dúi cho anh ăn học. Trái tim anh thắt lại. Từ lúc ấy, trong lòng anh luôn có một ý nghĩ: phải cố gắng vì tương lai hai đứa.

Họ vẫn chưa nói lời yêu! Nhưng đợt nghỉ Tết, anh về lại Dran, thuê một căn nhà gỗ nhỏ gần nhà cô, chạy qua chạy lại giúp cô chuyện vườn tược. Họ ăn cái Tết đầu tiên cùng nhau trong niềm hạnh phúc ngập tràn. Tháng 3 năm 1998, lần đầu tiên Lam xuống Sài Gòn. Anh đã thực hiện được ước mơ đưa cô đi xem phim, dạo Bến cảng Nhà Rồng, ngắm cầu Sài Gòn, vào quán cà phê nhâm nhi. Lam vui rộn ràng, cô nói: “Mấy chuyện vui như này em về kể cả đời không hết”. Anh nghe thương sao mà thương.

Mỗi lần gặp nhau, lúc chia tay, anh lại phát hiện ra một món tiền cô giấu ở đâu đó. Số tiền không nhỏ, đủ để anh trang trải suốt vài ba tháng trời tằn tiện. Anh hiểu đó là mồ hôi, nước mắt, là tiền chắt bóp của cô suốt bao ngày làm vườn, bươn chải buôn bán nông sản. Anh quyết tâm học để không phụ lòng cô.

2. Tháng 9 năm 2000, anh được nhà trường thông báo nhận học bổng một trường đại học danh tiếng ở Mỹ do thành tích học tập và nghiên cứu khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Thời gian được tạm nghỉ học để chuẩn bị mọi thứ, anh bắt xe ngay về Dran để báo tin vui với cô. Lòng vui như hoa nở, anh thấy con đường tươi sáng đang mở ra phía trước, cho anh và cho Lam.

Lam mừng đến phát khóc, cứ nắm chặt tay anh mà hỏi: “Thiệt sao anh, thiệt sao anh?” Anh nói: “Thiệt chứ. Có điều mình phải xa nhau hơi lâu. Lam ráng chờ anh tầm 3 năm, lúc đó mọi thứ tốt đẹp rồi, anh về đón Lam nha”. Lam không trả lời anh, nhưng hai má Lam hồng rực như trái hồng mùa thu. Họ vẫn chưa chính thức nói lời yêu.

 Anh bay sang Mỹ vào cuối năm 2000, chưa kịp ăn với cô một cái Tết nữa. Trước ngày chia tay, họ cùng nhau đi dạo trong vườn hồng. Cuối thu cây khô trụi lá. Trên cành còn sót lại những trái hồng cuối vụ chín đỏ rực như những đốm lửa cao nguyên lập lòe khắp khu vườn. Khung cảnh ấy vừa đẹp, vừa buồn đến nao lòng. Lần đầu tiên, họ trao nhau nụ hôn say đắm. Anh khẽ vuốt tóc Lam: “Chờ anh nhé, anh đi vì tương lai hai đứa, rồi anh lại về với em”.

Lam dịu dàng giấu mặt vào vai anh, nghẹn ngào: “Anh cố gắng sống tốt nha, sống giùm cho cả giấc mơ của em…”.

Ngày ngồi trên máy bay xa rời quê hương, xa người yêu dấu, anh chợt nhận ra rằng mình vẫn chưa nói lời yêu cô.

Những năm tháng ấy, điện thoại ở quê còn là xa xỉ phẩm, thế nên anh và Lam chỉ liên lạc qua thư. Một lá thư gửi từ thị trấn nhỏ miền núi sang Mỹ mất nửa tháng trời. Những bức thư dài lắm nhưng không bao giờ là đủ. Chỉ mấy trang viết, làm sao nói hết được nỗi nhớ nhung dằng dặc dành cho nhau. Rất nhiều lần, anh ước mình có thể bay về Việt Nam cho thỏa nỗi nhớ nhung. Nhưng một du học sinh không có gia đình hậu thuẫn như anh, ngoài cố gắng học chỉ biết nỗ lực làm thêm, dành dụm tiền sinh sống, làm sao dám nghĩ đến chuyện mua vé bay về.

Năm 2004, anh hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh và được trường giữ lại làm trợ giảng. Đó là một vinh dự lớn đối với một sinh viên châu Á, bởi ngôi trường ấy là một trong những trường đại học hàng đầu thế giới. Điều đầu tiên anh làm khi nhận được tin vui là viết ngay một lá thư dài gửi cho cô, trong thư có hẹn ngày về.

Thế nhưng, anh chẳng bao giờ nhận được hồi âm từ cô nữa. Cô như cánh chim vượt ngàn mây, như viên sỏi nhỏ lặn xuống đáy hồ, bặt tăm giữa dòng đời hối hả.

Anh đã trải qua những ngày tháng lo lắng, rồi hoảng loạn. Anh mua vé bay về Việt Nam, từ Sài Gòn bay thẳng lên Dran. Nhà vẫn ở đây, vườn hồng vẫn ở đây, nhưng cô không còn nơi đây nữa! Anh bàng hoàng khi nghe hàng xóm kể: khi anh đi du học hơn một năm thì mẹ cô được chẩn đoán là ung thư. Cầm cự một thời gian, cô phải bán cả nhà lẫn vườn, ba mẹ con xuống Sài Gòn thuê nhà gần bệnh viện để điều trị. Rồi xóm làng cũng bặt tin cô. Có người bảo, nghe nói cô đã lấy chồng, nghe nói chồng cô khá giả, lo được cho cô tiền chữa bệnh cho mẹ.

Anh như người điên. Anh lại bay về Sài Gòn, lùng sục các bệnh viện, chạy vô định khắp các con đường lớn nhỏ. Nhưng mà biển đời mênh mông quá, cô với anh lại chẳng có mối quan hệ chung nào. Cả hai như được buộc với nhau bằng một sợi chỉ nhỏ. Sợi chỉ đứt rồi, họ cũng lạc mất nhau.

Ngẫm lại những năm tháng qua, anh thấy mình vô tư quá, bao nỗi nhọc nhằn, gian nan nơi xứ người, bao mơ ước đẹp đẽ về tương lai trút hết trong thư. Nên cô, trong lúc khổ sở và kiệt quệ vì căn bệnh của mẹ, vì phải bán nhà cửa, xa rời quê hương vẫn không một lời than thở. Vẫn kể chuyện hái hồng, vẫn kể về những con đường hoa cỏ, động viên anh. Bởi cô biết, nếu cô kể cho anh mọi chuyện, rất có thể anh sẽ bỏ tất cả để trở về. Cô giữ cho anh một vùng trời bình yên để anh tự do tung cánh, còn cô, bao cay đắng giữ lại riêng mình.

3. Trong suốt những năm tháng về sau, có một giấc mơ luôn xuất hiện trong anh khi đêm về. Trong mơ, anh đạp xe chở cô dọc những con đường hoa dại, anh ôm cô, hôn cô dưới những tán hồng chín đỏ. Khi tỉnh dậy, nước mắt anh ướt gối. Nghỉ phép năm nào anh cũng bay về Việt Nam, tìm cô trong vô vọng. Trong hành trang của anh luôn có một chiếc nhẫn vàng trơn. Chiếc nhẫn cô lén dúi vào hành trang anh mang sang Mỹ. Cô gái ngây thơ ấy không biết rằng chiếc nhẫn “phòng thân” ấy chẳng thể bán đổi lấy tiền ở nước Mỹ. Thế nên, nó trở thành món quà kỷ niệm duy nhất cô dành cho anh và anh chỉ biết lấy ra ngắm mỗi khi nhớ cô đến cháy lòng.

Hai mươi năm tìm kiếm trong vô vọng, lần này, hy vọng lại được thắp lên trong anh. Cách đây 3 tháng, anh đã quyết định đưa câu chuyện của mình lên mạng, khẩn cầu cộng đồng giúp anh tìm Lam.

Một tháng trước, một người đàn ông có nickname “Vườn xưa” nhắn tin cho anh, xưng là người quen và có thông tin về Lam. Anh ta kể, ngày ấy sau khi Lam đưa mẹ và em xuống Sài Gòn, căn bệnh kéo dài, tiền bán nhà đã hết, mẹ không được chữa trị, em trai cũng sắp phải nghỉ học. Lam đồng ý làm bạn gái của một người đàn ông giàu có góa vợ, ông ta chu cấp cho Lam tiền chữa bệnh cho mẹ, nuôi em ăn học. Nhưng rồi hóa ra, vợ ông ta vẫn sờ sờ ở cùng nhà và Lam chỉ biết chuyện này khi cả gia đình họ kéo đến đánh cho Lam một trận thừa sống thiếu chết. Vì trận đòn này, Lam cũng mất đi đứa con chưa thành hình. Rồi mẹ Lam mất, cô một mình đi làm nuôi em ăn học nên người, giúp em dựng vợ, gả chồng. Giờ, Lam đã có tuổi, một mình quay lại xứ Dran, sống trong một vườn hồng, mở một quán cà phê nho nhỏ. Người đàn ông ấy hỏi anh: “Lam bị đời vùi dập đến thế, anh có muốn tìm Lam nữa không?”.

Câu trả lời bật thốt mà không cần suy nghĩ: “Tôi đã tìm Lam cả đời. Tôi mang ơn Lam, yêu Lam. Cô ấy vẫn là người con gái đẹp nhất trong lòng tôi”. Thế là người đàn ông không nói gì nữa, chỉ gửi cho anh một số nhà, một cái tên đường. Anh lập tức thu xếp, bay về.

Càng gần đến địa chỉ tìm kiếm, tim anh càng đập mạnh, lời nguyện cầu vang rõ trong tâm trí. Xe dừng trước một con dốc nhỏ, anh bước lên những bậc tam cấp bằng đá tảng, trước mặt là một vườn hồng đang mùa trĩu quả. Thấp thoáng vài chiếc bàn ghế thanh lịch dưới bóng mát cây hồng. Một người phụ nữ trung niên có đôi mắt đen, nước da hơi rám nắng nhưng đôi má đỏ au xứ lạnh đang lúi húi đặt một bình hoa dại trên bàn. Là Lam! Là Lam đó! Dẫu hai mươi năm cách trở, anh làm sao không nhận ra gương mặt vẫn luôn gặp gỡ trong mơ?

Anh bước nhanh đến, Lam bỗng ngẩng đầu. Nhìn thấy anh, cô thoáng sững sờ. Rồi, rất tự nhiên, Lam nhoẻn miệng cười, giang rộng vòng tay, dường như cô đã ở đây để chờ anh quay về suốt bao ngày tháng. Anh lao vào vòng tay cô, siết cô bằng một cái ôm đau đớn, bỏng cháy. Loáng thoáng trước mắt anh là tấm biển gỗ nhỏ treo tên quán cà phê nơi anh và cô đang đứng: quán “Vườn xưa”. Lần này, nhất định anh phải nói lời yêu Lam. 

Ngọc Mai

Recommended For You

Để lại một bình luận