Hạ calci máu (hypocalcemia) là nồng độ calci huyết tương toàn phần thấp hơn 215 mmol/l, nói chính xác hơn là khi nồng độ calci ion hóa trong huyết tương thấp hơn 0,9 mmol/l bởi chính calci ion hóa này mới là phần calci lưu hành có tác dụng sinh học và được điều hòa bởi các hormon của cơ thể.
Calci là chất khoáng thiết yếu giúp cơ thể hình thành hệ xương và răng vững chắc, đảm bảo chức phận thần kinh và sự đông máu bình thường.
Tất cả các quá trình chuyển hóa trong cơ thể đều cần calci, vì vậy nồng độ calci trong cơ thể được duy trì không thay đổi bằng cơ chế cân bằng (homeostatic).
Ngoài ra, ion calci còn đóng một vai trò then chốt trong hệ thống truyền tin nội bào và liên quan đến quá trình điều hòa hoạt động của nhiều enzym khác nhau.
Lượng calci trong cơ thể có tới 99% được dự trữ ở xương, một người trưởng thành có lượng calci là 920 – 1.000 g (nữ) và 1.200 g (nam). Tại đây calci liên kết với các ion khác để tạo nên các dạng tinh thể hydroxyapatite. Khoảng 1% calci còn lại trao đổi tự do với dịch ngoại bào.
Khoảng 40% calci toàn phần gắn với các protein huyết tương, chủ yếu là albumin. Khoảng 50% calci toàn phần ở dạng tự do ion hóa, là dạng có hoạt tính sinh học quan trọng nhất. Phần còn lại gắn với các hợp chất vô cơ khác như với phosphat và citrat. Định lượng calci ion hóa cung cấp những thông tin có giá trị chẩn đoán cao ở những bệnh nhân nghi ngờ có sự rối loạn nồng độ các protein gắn calci.
Duy trì lượng calci dự trữ của cơ thể cũng như nồng độ calci huyết tương phụ thuộc vào lượng calci được cung cấp qua bữa ăn hàng ngày, calci hấp thu tại ống tiêu hóa và bài tiết ở thận. Theo nhu cầu khuyến nghị, lượng calci là 1.000 – 1.300 mg/ngày/người trưởng thành.
Cơ thể bài tiết vào ống tiêu hóa khoảng 200 mg/ngày theo dịch mật và các dịch tiết khác. Tùy thuộc vào nồng độ 1,25-dihydroxy vitamin D lưu hành mà có từ 200 – 400 mg calci được hấp thu từ ống tiêu hóa. Phần còn lại từ 800 – 1.000 mg (20 – 25 mmol) mất qua phân. Cân bằng calci thực sự được duy trì thông qua sự bài tiết calci ở thận vào khoảng 200 mg/ngày (5 mmol/ngày).
Triệu chứng
Hạ calci máu có triệu chứng lâm sàng chủ yếu là hậu quả của tăng kích thích thần kinh cơ như: co cứng cơ vùng lưng và chuột rút ở chân.
Nếu hạ calci máu hình thành trong một thời gian ngắn thì các triệu chứng lâm sàng thường xuất hiện rõ hơn hạ calci máu chậm và âm ỷ thì có thể gây nên bệnh lý não lan tỏa mức độ nhẹ. Hạ calci máu nặng khi nồng độ calci huyết tương dưới 7 mg/ dL (dưới 1,75 mmol/l) có thể gây nên cơn tetany, co thắt thanh quản hoặc co giật toàn thân.
Cơn tetany là dấu hiệu đặc trưng của hạ calci máu nặng nề. Nó cũng có thể xuất hiện khi nồng độ calci ion hóa thấp mặc dù calci máu toàn phần bình thường như trong trường hợp nhiễm kiềm nặng.
Cơn tetany được đặc trưng bằng các triệu chứng cảm giác bao gồm dị cảm ở môi, lưỡi, ngón tay, ngón chân, dấu bàn đạp (bàn chân duỗi ra như thể đang đạp xe đạp) có thể kéo dài và gây đau đớn.
Trong cơn tetany còn có thể xuất hiện đau cơ toàn thân và co giật các cơ vùng mặt.
Cơn tetany có thể là những biểu hiện tự phát hoặc tiềm tàng và cần có các kích thích mới biểu hiện rõ.
Cơn tetany tiềm tàng xảy ra khi nồng độ calci máu giảm nhưng ít trầm trọng hơn: từ 7 – 8 mg/dL (tương ứng từ 1,75 đến 2,2 mmol/l).
Rối loạn nhịp có thể xuất hiện trong một số trường hợp hạ calci máu nặng. Điện tim điển hình của hạ calci máu có QT và ST kéo dài. Thay đổi của quá trình tái cực như sóng T cao nhọn hoặc ngược lại sóng T âm cũng có thể gặp. Trường hợp nặng có thể đưa đến rung thất hoặc bloc nhĩ – thất.
Không có một dấu hiệu đặc trưng cho tình trạng hạ calci máu nhưng khi các dấu hiệu này cùng xuất hiện trên một bệnh nhân thì có ý nghĩa gợi ý chẩn đoán khá tốt. Các dấu hiệu rối loạn chức năng kể trên xảy ra khi hạ calci máu và các dấu hiệu này được cải thiện rõ khi nồng độ calci máu trở về bình thường.
Hạ calci máu mạn tính gây nên nhiều bất thường khác nhau như da khô và bong vảy, móng tay dễ gãy và tóc khô. Nhiễm nấm Candida da cũng có thể gặp trong hạ calci máu mạn. Đục thủy tinh thể có thể gặp trong hạ calci máu dài ngày và dấu hiệu này không hồi phục khi calci huyết tương trở về bình thường.
Dấu hiệu cuối của tuổi dậy thì trong trường hợp của nữ thanh niên cũng là một dấu hiệu của sự thiếu hụt calci. Ngoài chậm dậy thì ở tuổi thiếu niên, các vấn đề khác liên quan đến kinh nguyệt cũng là dấu hiệu của sự thiếu hụt calci trong cơ thể. Nhiều thanh thiếu niên bị chuột rút, đau bụng kinh giai đoạn tiền kinh nguyệt do sự thiếu hụt calci.
Nguyên tắc điều trị
Điều trị hạ calci máu được bắt đầu bằng dùng calci.
Việc chọn lựa các dạng chế phẩm chứa calci cũng như cân nhắc sự cần thiết điều trị bằng các thuốc hỗ trợ hay không tùy thuộc vào mức độ của hạ calci máu cũng như các bệnh lý nguyên nhân.
Điều trị hạ calci máu cấp tính
Hạ calci máu cấp tính thường gây nên các biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng khi nồng độ calci huyết tương dưới 1,9 mmol/l thì điều trị bằng calci tĩnh mạch. Truyền 15 mg/kg (0,375 mmol/ kg) calci nguyên tố trong vòng 4 đến 6 giờ có thể làm tăng nồng độ calci máu toàn phần lên 0,5 đến 0,75 mmol/l (20 – 30 mg/l).
Nhiều dạng calci truyền tĩnh mạch khác nhau hiện có trên thị trường
Gluconate de calcium 10% trình bày dưới dạng ống 10 ml chứa 94 mg calci nguyên tố. Trong trường hợp cấp cứu, có thể dùng nguyên ống bơm tĩnh mạch chậm trong 4 phút, sau đó truyền tĩnh mạch liên tục. Không nên dùng chế phẩm dịch truyền nồng độ cao (200 mg Ca trong 100 ml) vì có nguy cơ gây ảnh hưởng chức năng tĩnh mạch và hoại tử trong trường hợp dịch truyền thoát mạch ra tổ chức dưới da.
Thông thường người ta hòa 10 ống gluconate de calcium trong 900 ml dung dịch glucose 5% để đạt được một dung dịch chứa 940 mg calci nguyên tố/lít và dung dịch này có thể truyền tốc độ 50 ml/giờ khi mới bắt đầu và sau đó điều chỉnh tốc độ cho phù hợp. Đôi khi trong trường hợp cần thiết, dung dịch này được duy trì trong 4 – 6 giờ.
Glucoheptate de calcium 10% chứa 90 mg calci nguyên tố trong 5 ml dung dịch có thể hữu ích ở những bệnh nhân cần hạn chế dịch đưa vào.
Clorure de calcium 10% có nồng độ còn cao hơn nữa (272 mg calci nguyên tố trong 10 ml) có thể làm tăng nhanh chóng nồng độ calci máu. Tuy nhiên, chế phẩm này rất độc với tĩnh mạch cho nên không được truyền tĩnh mạch kéo dài.
Globionate de calcium sẵn có ở dạng uống chứa 23 mg calci nguyên tố trong 1 ml. Chế phẩm này được hấp thu và dung nạp rất tốt, là một chọn lựa thích hợp cho trẻ em hoặc người lớn không có đường truyền tĩnh mạch.
Một số bệnh nhân bị hạ calci máu nặng sau cắt bỏ bán phần hoặc toàn phần tuyến cận giáp cần được tiêm cấp cứu calci và vitamin D. Ban đầu, calci thường được cho bằng đường tĩnh mạch sau đó tiếp tục với dạng uống kèm với vitamin D.
Liều cao vitamin D đường tĩnh mạch thường được sử dụng: 1 đến 3 μg/ngày và giảm dần liều trong các tuần tiếp theo.
Việc cho calcitriol và Ca trước khi phẫu thuật cắt bỏ tuyến cận giáp có thể phòng ngừa được tình trạng hạ calci máu trầm trọng và giảm thiểu phản ứng dội tăng PTH vào giai đoạn sớm trong trường hợp cắt bỏ bán phần tuyến cận giáp.