Lộ trình và giải pháp phát triển kinh tế tuần hoàn hướng tới mục tiêu Net Zero của Việt Nam

Áp dụng kinh tế tuần hoàn đang là một xu hướng mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới bởi chính những lợi ích về cả kinh tế, môi trường và xã hội mà nó được kỳ vọng mang lại như: Tạo ra cơ hội tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và giảm tác động môi trường, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDG) và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Đây là những nhận định chính của Hội thảo “Lộ trình và giải pháp phát triển kinh tế tuần hoàn hướng tới mục tiêu Net Zero của Việt Nam” do Viện Địa lí nhân văn (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức ngày 2/11 tại Hà Nội.

Hội thảo được tổ chức nhằm trao đổi, thảo luận về lộ trình và giải pháp, các nguồn lực tài chính cho thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam; giới thiệu các dự án môi trường, vai trò của kinh tế tuần hoàn trong phát triển bền vững, thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0, thông tin các nội dung cơ bản về Hội nghị lần thứ 28 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (COP28).

Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Nguyễn Song Tùng, Viện trưởng Viện Địa lí nhân văn cho biết, hiện nay các hệ sinh thái trên trái đất đang tiếp tục suy thoái hoặc biến đổi, đa dạng sinh học đang suy giảm với tốc độ chưa từng có trong lịch sử loài người, chạm ngưỡng không thể đảo ngược, ảnh hưởng đến việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs).

Để ngăn chặn biến đổi khí hậu, hướng tới sự phát triển bền vững, tại Hội nghị COP26, các quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã đưa ra những cam kết mạnh mẽ về giảm phát thải khí nhà kính với mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Trong đó, chuyển đổi cơ cấu năng lượng sang ưu tiên năng lượng sạch, tái tạo là trọng tâm. Tuy nhiên, theo nhiều tổ chức quốc tế, chuyển đổi năng lượng, cùng với sử dụng hiệu quả năng lượng chỉ đóng góp được 55% cho mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, còn 45% nằm ở các giải pháp kinh tế tuần hoàn.

Trong bối cảnh đó, kinh tế tuần hoàn là nền tảng, tạo ra “chìa khóa vàng” giúp Việt Nam đạt mục tiêu Net Zero như đã cam kết, cũng như góp phần chống lại biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, để phát triển bền vững.

Chia sẻ tại Hội thảo, TS. Nguyễn Thị Liễu, Viện Khoa học khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho hay, phát thải ròng bằng 0 hay “Net Zero” là cam kết chính trị mạnh mẽ của Việt Nam tại Hội nghị COP26. Để giải quyết những thách thức trên, Chính phủ Việt Nam đã ban hành khung hành lang pháp lý nhằm thực hiện đồng bộ các giải pháp và đưa ra chiến lược, mục tiêu trong tương lai, trong đó có xây dựng khung chính sách phát triển thị trường carbon.

Cũng theo TS. Nguyễn Thị Liễu, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực từ ngày 1/1/2022 đã quy định việc tổ chức và thực hiện thị trường carbon. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng dự thảo Đề án “Phát triển thị trường carbon tại Việt Nam”. Theo đó, đến năm 2025 Việt Nam sẽ bắt đầu thí điểm và đến năm 2028 sẽ vận hành chính thức sàn giao dịch tín chỉ carbon.

Ông Vũ Quốc Anh, Quản lý dự án của Tổ chức Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên tại Việt Nam (WWF-Việt Nam), Điều phối Liên minh Hành động vì khí hậu cho biết, cam kết Net Zero đã mở ra nhiều cơ hội hợp tác và hỗ trợ quốc tế dành cho Việt Nam, cũng như đặt ra nhiệm vụ xem xét và cập nhật các chính sách, chiến lược quốc gia trong công tác ứng phó với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính.

Ông Vũ Quốc Anh cho rằng, các biện pháp như đánh thuế vào hàng hóa nhập khẩu dựa trên các-bon, thúc đẩy thương mại hàng hóa xanh, xoá bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa thạch, hỗ trợ kinh tế tuần hoàn, đảm bảo các đối tác thương mại áp dụng các tiêu chuẩn môi trường cao, phát thải các-bon thấp, trợ cấp cho các ngành công nghiệp ít phát thải… đang được áp dụng ngày càng rộng rãi để buộc các quốc gia phát triển kinh tế cácbon thấp, sử dụng năng lượng sạch. Và để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào cuối thế kỷ, nhiều nước đã áp dụng những công cụ chính sách đa dạng dựa vào thị trường và các công cụ khác trong chiến lược dài hạn để hướng tới mục tiêu này.

Còn theo TS Nguyễn Đình Đáp, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cho rằng, việc giảm thiểu và loại bỏ chất thải và ô nhiễm sẽ giảm phát thải khí nhà kính trong toàn bộ chuỗi giá trị bằng cách luân chuyển, thu giữ lại năng lượng có trong các sản phẩm và vật liệu, tái tạo tự nhiên giúp cô lập và thu giữ được carbon. Kinh tế tuần hoàn góp phần giảm rủi ro cho doanh nghiệp về khủng hoảng thừa sản phẩm, khan hiếm tài nguyên; tạo động lực để đầu tư, đổi mới công nghệ, giảm chi phí sản xuất, tăng chuỗi cung ứng…

Thảo luận tại Hội thảo, các đại biểu thống nhất cho rằng, việc chuyển đổi từ mô hình tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn, kinh tế cacbon thấp hướng tới phát thải ròng bằng 0 tại Việt Nam bước đầu sẽ gặp khó khăn nhất định, trong bối cảnh nước ta còn thiếu các cơ chế chính sách thúc đẩy và nguồn lực, công nghệ tái chế, tái sử dụng còn hạn chế.

Do đó, các kiến nghị chính được các đại biểu đưa ra bao gồm: Xây dựng cơ chế khuyến khích việc chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn; Thúc đẩy và tham gia hợp tác quốc tế hiệu quả trong các hiệp định và cam kết quốc tế về chống biến đổi khí hậu và phát triển xanh; Tập trung xây dựng các mô hình kinh tế tuần hoàn ở một số ngành, lĩnh vực thành công để làm cơ sở phổ biến, nhân rộng; Hỗ trợ tiếp cận theo phương thức đầu tư hợp tác công tư nhằm huy động tối đa nguồn lực các bên liên quan; Đầu tư nâng cao năng lực và vai trò của các tổ chức đại diện doanh nghiệp để tăng cường khả năng tập hợp, đối thoại, góp ý hoàn thiện thể chế, chính sách kinh tế, phổ biến chính sách pháp luật, tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về kinh tế tuần hoàn, hỗ trợ doanh nghiệp hội nhập quốc tế với các tiêu chuẩn cao…

Nguồn: Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Minh Hà

Recommended For You