Chương trình giao lưu “Tìm về di sản mỹ thuật truyền thống Nam bộ” và giới thiệu bộ sách: Gốm Cây Mai – Đề ngạn Sài Gòn xưa; Gốm Sài Gòn; Tranh trường Khmer Nam bộ cùng nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình và nhóm tác giả diễn ra trong sáng nay 1/11, do Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM tổ chức.
Người Khmer Nam bộ và nghệ thuật tranh tường
Nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình đã dành non 10 năm để đến hàng trăm ngôi chùa Khmer Nam bộ nhằm sưu tầm và chắt lọc tư liệu hoàn thành cuốn sách ảnh tranh tường Khmer Nam bộ. Người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Ấn Độ. Họ thường lấy ngôi chùa làm trung tâm của cuộc sống. Họ tiếp thu tôn giáo – văn hóa thông qua nhiều con đường, trong đó có nghệ thuật tranh tường.
Tranh tường Khmer kế thừa thành tựu nghệ thuật tạo hình truyền thống, trực tiếp là nghệ thuật trang trí nội ngoại thất tự viện, tranh cuộn trên vải/preah bot, tranh vẽ trên giấy bìa “kờrăng”.
Cuốn sách đi sâu vào tìm hiểu về nguồn gốc, lịch sử, nội dung, nghệ thuật và đặc điểm, tính chất của tranh tường Khmer.
Tác phẩm còn đề cập đến nghề vẽ tranh tường và tập thành tranh tường do các thế hệ nghệ nhân Khmer tạo tác nội – ngoại thất ở một số chùa tháp Phật giáo Nam tông Khmer tại các tỉnh An Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang… Do đó, tranh tường Khmer độc đáo không chỉ về mặt đề tài mà cả về đặc trưng hình họa, màu sắc và phong cách tạo hình nghệ thuật.
Bên cạnh đó, tranh tường Khmer cũng cho thấy thị hiếu thẩm mỹ và cái nhìn mỹ thuật không chỉ của người nghệ nhân tạo tác mà đó còn là của cả cộng đồng người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Đặc trưng của dòng tranh tường này là biến đổi theo thời gian. Xưa kia tranh tường mang phong cách hội họa dân gian mà đặc trưng của nó là đồ họa hai chiều, tô màu theo từng mảng và nguyên liệu chủ yếu là bột màu, có loại chất màu lấy từ thực vật và khoáng sản tự nhiên.
Về sau, tranh vẽ bằng sơn dầu công nghiệp và ngày nay người nghệ nhân đã tận dụng hầu như tất cả các loại sơn có bán trên thị trường với bảng màu phong phú, và tận dụng cả màu dạ quang để tăng phần rực rỡ gây hiệu quả trực quan.
Ở thời cận đại, các nghệ nhân đã tiếp thu thêm phương pháp hội họa hiện đại: áp dụng luật phối cảnh và xử lý ánh sáng tạo nên những bức họa ba chiều. Chính điều này đã làm cho tranh tường Khmer Nam bộ đổi mới để phù hợp với thị hiếu thời đại của công chúng.
Cuốn sách được thể hiện phong phú dưới dạng điều tra điền dã để khảo sát những bức tranh tường cũ lẫn mới; trong đó có phỏng vấn các nghệ nhân vẽ tranh tường cũng như những vị Acha, sư sãi, các trí thức, cán bộ văn hóa Khmer và người dân Khmer ở một số địa phương.
Đề tài mới và lạ nhưng với sự say mê nghệ thuật vẽ tranh trên kiếng của các cộng đồng nghệ nhân ở vùng đất này, đặc biệt là tranh kiếng của các nghệ nhân Khmer ở Trà Vinh, Sóc Trăng, tác giả đã hoàn thành cuốn sách tâm huyết.
Tranh kiếng Khmer lại có cội nguồn từ một truyền thống hội họa cổ xưa và trực tiếp là từ tranh tường ở các chùa tháp. Đó là con đường dẫn dắt tác giả đến với một di sản hội họa phong phú về đề tài lẫn phong cách nghệ thuật. Đó là tranh tường. Những ngày điền dã đó đã giúp tác giả có thêm những kiến thức cần thiết. “May mắn là bà con mình tốt bụng và hiếu khách lắm, nhờ sự nồng hậu như vậy mà mình mới có được những hiểu biết để viết cuốn sách này”, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình, kể lại.
Gốm Cây Mai
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Huỳnh Ngọc Trảng thì dài hơi hơn, ông gần như dành trọn cuộc đời cho những bước chân nghiên cứu điền dã. Bộ sách về gốm như Gốm Cây Mai – Đề ngạn Sài Gòn xưa; Gốm Sài Gòn, Gốm Lái Thiêu (đang thực hiện) được làm mới thêm nhiều hơn. Bộ sách là sự cộng tác giữa nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng với nhà nghiên cứu Nguyễn Đại Phúc, hai cộng sự trẻ Lưu Kim Chung – Nguyễn Đức Huy, nhà sưu tập Nguyễn Anh Kiệt, nhà sưu tập Hồ Hoàng Tuấn cùng sự giúp sức của nhiều nhà sưu tập…
“Khi tái hiện lại 3 cuốn sách về ba dòng gốm quen thuộc của Nam bộ: gốm Cây Mai, gốm Sài Gòn và gốm Lái Thiêu, chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn.
Gốm Cây Mai và gốm Sài Gòn là những dòng gốm đã thất truyền và ngưng sản xuất từ đầu thế kỷ 20. Cả 3 dòng gốm này đều bắt nguồn từ những di dân người Hoa đến Sài Gòn – Chợ Lớn, Biên Hòa và Bình Dương xưa nên những thư tịch cổ, tài liệu xưa của người Hoa đều bằng chữ Hán. Do đó, để truy tìm chủ nhân của dòng gốm này hầu như vô vọng.
May mắn thay, trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi đã lần theo các thư tịch cổ, tài liệu xưa cũng như minh văn bằng chữ Hán trên các sản phẩm gốm, nên đã tìm gặp được một số người là hậu duệ của các nghệ nhân làm gốm xưa và có cơ hội kiểm chứng, đối chiếu với những thông tin thu thập được để sửa chữa, bổ khuyết vào nội dung cho ra các tập sách nêu trên ra mắt đôc giả”, Lưu Kim Chung, chia sẻ.
Ông Huỳnh Ngọc Trảng chọn Gốm Cây Mai là tác phẩm mở đầu cho dòng sách về gốm, khởi nguồn từ lý do lịch sử xuất hiện lần lượt của các dòng gốm tại vùng đất Nam kỳ xưa: “Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, tình hình sản xuất gốm ở Nam kỳ được một số tác giả người Pháp đề cập đến trong các tạp chí nghiên cứu và trong các địa phương chí các tỉnh ở Nam kỳ. Tường tận nhất là bài khảo cứu về kỹ nghệ làm đồ đất nung ở Nam kỳ của đại úy công binh Derbès.
Điểm nổi bật của dòng gốm này là sành cứng có men màu với xương gốm chắc bền vững hơn. Bảng màu tuy không phong phú (màu xanh lam, màu xanh ve chai; các màu bổ trợ là màu vàng, màu đen, màu nâu đỏ, nâu và trắng) nhưng chúng tạo ra sắc thái riêng, nằm giữa sự mộc mạc và mỹ lệ, như một tạo tác hình khối mãnh liệt.
Đổi lại, gốm Cây Mai sở hữu hầu như tất cả kỹ pháp trang trí để xuất hiện phổ biến khắp các công trình gốm gia dụng, gốm xây dựng, gốm gia dụng bài trí, gốm thờ tự, tượng thờ, tượng trang trí, ngõa tích trang trí… Tiếc thay, quá trình đô thị hóa ở vùng Chợ Lớn phát triển (thiếu nguyên liệu và bất tiện hơn) đã đẩy các nghệ nhân hàng đầu của dòng gốm này sang công cuộc dịch chuyển về làng nghề Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Thủ Đức…
Gốm Sài Gòn
Gốm Sài Gòn là tên gọi để chỉ một dòng sản phẩm gốm sứ ra đời từ những thập niên đầu thế kỷ XX.
Gốm Sài Gòn thịnh nổi bật với hai gam màu chủ đạo là trắng xanh và ngũ sắc được vẽ trau chuốt và kỳ công. Chúng được định danh là “Gốm Sài Gòn” bởi danh xưng Sài Gòn lúc đó được mệnh danh là Hòn ngọc Viễn Đông.
Cùng chung số phận với Gốm Cây Mai, vào giữa thế kỷ XX, dưới sức ép đô thị hóa của vùng Sài Gòn – Chợ Lớn, đồng thời với sự cạn kiệt dần nguồn nguyên liệu sản xuất, nhiều lò gốm buộc phải di dời về Thủ Dầu Một (Bình Dương ngày nay) và một số chủ lò vẫn tiếp tục giữ thương hiệu cũ.
Sắp tới, đội ngũ nghiên cứu sẽ sớm hoàn thành tập sách ảnh Gốm Lái Thiêu – một trong những dòng gốm cũng rất nổi tiếng ở vùng đất Nam bộ.
Tuy là “người một nhà”, cùng hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng và con gái là nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình có những địa hạt nghiên cứu chuyên sâu riêng.
Huỳnh Thanh Bình chia sẻ: “Bố tôi, Huỳnh Ngọc Trảng đã dành nhiều năm tìm hiểu về văn hóa Khmer Nam bộ, song đối tượng chính của ông là văn học dân gian Khmer và thêm vào đó là các loại hình sân khấu. Nói chung, ông chuyên sâu về nghệ thuật biểu diễn của người Khmer.
Chính vì vậy, ông khuyên tôi nên đi sâu vào lĩnh vực nghệ thuật tạo hình, đó là cái bố tôi rất thích nhưng chưa làm được. Ông là người cung cấp những hiểu biết cơ bản về lãnh vực này cho tôi. Ông bảo ông là người “chỉ điểm”, song trong thực tế ông chỉ dạy tôi nhiều điều bổ ích để … khởi nghiệp”.
Với mong muốn giữ gìn dòng chảy lịch sử – văn hóa – nghệ thuật, đội ngũ các nhà nghiên cứu đã cố gắng đem lại cho công chúng những thông tin xác thực và những kiến thức căn bản, trước sự mai một đã báo động và đang biến mất rất nhanh trong đời sống hiện nay. Qua đó, những tập sách ảnh trên muốn chạm vào cảm xúc và lưu giữ cùng bạn đọc ký ức thời gian của di sản mỹ thuật truyền thống Nam bộ xưa.