Bâng khuâng

Lại nghe nắng xôn xao con ngõ vắng
Xuân đang thì sao hạ vội vàng sang
Lá khế rụng vàng sân loang đốm nắng
Xui lòng ta vô cớ bâng khuâng.

Xin trời đất hãy đừng gấp gáp
Chầm chậm thôi trôi thật nhịp nhàng
Ta muốn hưởng ngày xuân thêm chút nữa
Những ngày xuân bịn rịn xốn xang.

Đời thật lạ một mình mình im ắng
Càng nôn nao nghĩ ngợi xa gần
Bao bạn bè giờ đây không còn nữa
Đời thực hay hư, ôi quá mênh mông.

Ta được sống sau bao nhiêu vật vã
Lạ lùng thay chết cũng khó vô cùng
Thế mới biết đời luôn đầy bí hiểm
Bí hiểm nao lòng, bí hiểm đến mông lung.

Hoàng Cát

Tôi cứ để dành, chờ giới thiệu ông trong chuyên mục “Gương mặt thơ” dịp kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2024), nhưng rồi, ông đã vội ra đi. Ông mất ngày 1-7 vừa qua.


Cuộc đời Hoàng Cát khá chông gai. Ông là thương binh, gửi lại 1 chân ở chiến trường Quảng Trị năm 1971. Nhớ lần gặp nhau ở Pleiku, ông nói: “Chân anh gửi lại gần quê em đấy”. Và ông kể vanh vách về vùng Quảng Trị giáp Thừa Thiên-Huế hết sức khốc liệt ấy, nơi có một người mẹ đã nuôi ông dưới hầm những ngày bị thương.

Ông sống khá vất vả từ sau khi bị thương vì những nguyên cớ vu vơ liên quan tới một truyện ngắn. Cái thời ấy nó thế, nhưng ông luôn lạc quan, hết sức lạc quan. Năm 2012, nghe tin ông bị ung thư, nhân chuyến ra Hà Nội, tôi tìm tới nhà thăm. Và tôi đã gặp một Hoàng Cát nói cười rổn rảng, đọc thơ như lên đồng, không nói gì tới chuyện bệnh tật, hái tặng tôi mấy quả khế ở ngay cái cây được trồng trong sân, lại còn gửi cốm cho tôi về làm quà.

Nếu không tinh thì ít người biết ông mất 1 chân vì ông sử dụng chân gỗ rất thành thạo và còn đi nhanh hơn người thường. Thơ ông viết về lẽ sống-chết ở đời cứ nhẹ tênh, nên ông lạc quan tới phút cuối cùng là thế: “Ta được sống sau bao nhiêu vật vã/Lạ lùng thay chết cũng khó vô cùng/Thế mới biết đời luôn đầy bí hiểm/Bí hiểm nao lòng, bí hiểm đến mông lung”.

Ông tình nghĩa với bạn bè tới cực đoan và cũng tốt tới cực đoan. Ở đâu có ông, ở đấy đầy tiếng cười và cả nước mắt. Năm 1966, giữa chiến trường, ông viết thơ cho con gái, giờ là một nhà báo: “Lưng mang ba lô nặng/Vai vác súng AK/Mỗi lần lá vào võng/Lại nhớ tay con xa/Tạm nghỉ chân giữa rừng/Ba gửi về cùng gió/Ba gửi về cùng hương/Chiếc lá từ Trường Sơn”.

Ông viết về vợ, người vợ tảo tần trọn đời: “Cảm ơn em đã truyền lửa cho anh/Để năm tháng không trở thành băng giá/Để khổ đau không quật anh gục ngã/Anh như cây trơ trọi giữa mùa đông/Để sớm mai nay bất ngờ nắng rạng/Anh được bàng hoàng, ngơ ngác trước dòng sông”.
Và dẫu biết trái tim sẽ có ngày trở chứng, ông vẫn điềm nhiên và ngơ ngác trước cái đẹp: “Giờ trái tim bỗng trở chứng-mong manh/Có thể vỡ bất kỳ trong khoảnh khắc/Trước mỗi ban mai ta càng yêu da diết/Cuộc đời ơi! Người đẹp đến nao lòng”.

Nhà thơ Văn Công

Nguồn: Báo Gia Lai online

Recommended For You

Để lại một bình luận